Tên, thủ bút của Cảnh Lân
Tên, thủ bút của Cảnh Lân

Bàn về chữ tên 𠸜. Người xưa có bao nhiêu cái tên?

Có người nói, con người ta chỉ thực sự bắt đầu hiện hữu khi có cho mình một cái tên. Tên là để người khác gọi ta, cũng là cách để ta gọi mình. Nó đại biểu cho căn cước cá nhân, là chiếc nhãn đầu tiên đánh dấu sự tồn tại và mở ra vô số mối liên hệ trong đời mỗi người.

Tên, chữ Nôm viết là 𠸜. Cấu tạo của chữ gồm hai thành tố: Bên trái là chữ tiên 先 và bên phải là chữ danh 名. Trong đó, chữ danh 名 là thành tố biểu ý gợi nghĩa cho tên gọi, danh xưng, còn chữ tiên 先 là thành tố biểu âm, cho âm đọc Nôm là tên.

Theo nguyên tắc chỉnh vần của chữ Nôm mà thực tế là chỉnh nguyên âm, ta có nguyên tắc: Nguyên âm dòng nào thì chỉnh theo nguyên âm dòng ấy. Chữ tên 𠸜 được chỉnh theo nguyên tắc nguyên âm dòng trước là i, iê (ia), ê, e. Cụ thể ở đây là chỉnh từ iê → ê, từ tiên → tên. Người Việt ta đã áp dụng nguyên lý chung này trong quá trình hình thành rất nhiều chữ Nôm khác.

Trong truyền thống, tên không chỉ có một. Ngoài cái tên thường gọi từ thuở mới sinh, người xưa còn có tên tự, tên hiệu, tên thụy. Trong đó mỗi cái tên đều đại biểu cho một tầng ý nghĩa và vai trò riêng trong vòng đời mỗi người.

Tên húy có nghĩa là tên tục. Đây là cái tên được cha mẹ đặt khi mới lọt lòng, dùng trong sinh hoạt thường ngày như tên khai sinh hiện nay. Điều kiêng kỵ là người dưới không được gọi tên húy người trên, học trò không được gọi tên húy của thầy, con cháu tránh gọi tên húy ông bà cha mẹ, dân chúng không được gọi tên húy vua chúa hay người trong hoàng tộc. Ta hay nghe những từ như kiêng húy, kỵ húy, phạm húy… cũng là vì lẽ ấy.

Tên tự là cái tên được đặt thứ hai khi người con trai đến tuổi trưởng thành, ngày xưa quy định thường là hai mươi tuổi. Tên tự dùng để gọi thay cho tên húy, nhất là trong giao tiếp lịch sự, học thuật. Tên tự thường có nghĩa liên hệ với tên húy, đôi khi là nghĩa mở rộng hoặc bổ sung. Người xưa cho rằng tên tự càng sâu, càng “kín cổng cao tường” thì càng biểu hiện cho vốn học thức huyền diệu, uyên bác.

Tên hiệu, tức là tên người ta tự đặt cho mình hoặc được bạn bè và học trò gọi, mục đích là để xưng tỏ lý tưởng sống người ấy. Tên hiệu có thể là một biệt danh trong giới văn chương, cũng có thể là tên gọi gắn với nơi ở, nghề nghiệp hoặc khí chất người ấy. Chẳng hạn Nguyễn Du là Thanh Hiên, Nguyễn Trãi là Ức Trai, Nguyễn Bỉnh Khiêm là Bạch Vân am cư sĩ… Người thành danh thường có hiệu, song cũng có nhiều người tự đặt cho mình tên hiệu để tu dưỡng nhân cách, hướng đến phiên bản mình muốn trở thành.

Tên thụy là cái tên sau cùng, nghĩa là cái tên được đặt khi người ta đã mất. Tên thụy phổ biến trong hoàng tộc vì vua chúa, quan lại và những người có vai vế đều sẽ có thụy hiệu. Dân gian hay gọi thụy hiệu là tên cúng cơm hoặc tên hèm. Trong nghi thức cúng kiếng, con cháu sẽ xướng tên thụy để mời người đã khuất về hưởng lễ.

Chữ 𠸜 tên được dùng trong nhiều văn bản chữ Nôm, chẳng hạn như trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:

本𣳔户宦名家
昆官吏部𠸜𱺵宦姐
Vốn dòng họ Hoạn danh gia
Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư.

(1525 đến 1530)

Hay trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu viết:

疎浪碎僑月娥
尼昆婢𡠚𠸜𱺵金蓮
Thưa rằng tôi Kiều Nguyệt Nga,
Này con tì tất tên là Kim Liên.

Tên là chiếc bóng đồng hành cùng mỗi người, là tiếng gọi đi theo ta từ lúc lọt lòng đến ngày trưởng thành, thành danh, rồi tới khi nằm xuống. Có người sống trọn đời trong một cái tên, nhưng cũng có người phải đi hết đời mới hiểu được tên mình. Vì thế từ xưa đến nay, chuyện đặt tên chưa bao giờ là chuyện dễ dàng.

Tên bạn có nghĩa là gì? Bạn có muốn chúng tôi tìm chữ Hán hoặc chữ Nôm tên bạn không? Bình luận bên dưới nhé!

__
Bài viết: Khánh Ly
Hình ảnh: Tên, thủ bút của Cảnh Lân