Vân trình, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ
Vân trình, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

Cửa trời rộng mở đường mây

“Vân trình”, Hán tự là 雲程, bao gồm “vân” 雲 là mây, đôi khi còn dùng để chỉ trời cao, “trình” 程 là con đường, quãng đường, xuất hiện trong “lộ trình”, “hành trình”. Ghép lại, “Vân trình” 雲程 nghĩa là “đường mây”, hay còn có thể hiểu là con đường hướng lên mây – một hành trình thênh thang, xa rộng, khó lường nhưng đầy hy vọng. “Vân trình” 雲程 còn dùng để chỉ con đường tiến thân, đường công danh sự nghiệp. Đây là điều mà mọi kẻ sĩ đều hướng đến, đặc biệt trong bối cảnh Nho giáo.

Danh sĩ Đoàn Huyên thời Nguyễn từng có đôi câu thơ:

鵬化曾聞剃羽翰,
雲程剛起九秋摶。

Phiên âm:
Bằng hoá tằng văn thế vũ hàn,
Vân trình cương khởi cửu thu đoàn.
Dịch thơ:
Côn hoá chim bằng nơi trận bút,
Vượt thu gió xoáy ngự đường mây.
(Bản dịch của Lương Trọng Nhàn)

Hay như trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Kim Trọng khi nguôi ngoai dần nỗi nhớ thương nàng Kiều, chàng chăm chỉ học hành và thi đỗ làm quan:

“Cửa trời rộng mở đường mây
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần”.

Ngày nay, “vân trình” 雲程 không còn được sử dụng rộng rãi trong tiếng Việt nhưng những dấu ấn của nó vẫn còn được lưu giữ, chẳng hạn như chúng ta hay dùng “một bước lên mây” với nghĩa đổi đời, thăng tiến nhanh chóng trong sự nghiệp có lẽ cũng bắt nguồn từ ý nghĩa của cụm từ này.

Từ một hình ảnh thiên nhiên, “vân trình” 雲程 đã vượt qua phạm vi ngữ nghĩa thông thường để trở thành biểu tượng cho khát vọng lập thân trong không gian văn hóa Nho giáo, nơi lấy học vấn làm bệ phóng, lấy thi cử lập công danh làm con đường chính đạo. Dù thời đại đã đổi thay, “vân trình” 雲程 vẫn còn giá trị biểu tượng sâu sắc, nhắc nhớ chúng ta về truyền thống hiếu học, nhắc nhớ sức mạnh triết lý phương Đông vẫn thấm nhuần trong nếp sống, cách nghĩ, trong ý chí vươn lên và cả lòng hiếu tri vẫn luôn hiện hữu.


Bài viết: Mỹ Trinh
Hình ảnh: Vân trình, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ