Đức 德
“Chim chích mà đậu cành tre
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.”
(Ca dao)
Đố bạn, đây là ca dao chiết tự của chữ gì?
Người Việt xưa rất khéo học chữ Hán qua những câu ca dao gần gũi đời thường. Câu ca dao này chính là một mẹo để nhớ chữ Đức của ông bà mình.
Đức, chữ Hán viết là 德. Theo từ điển Hoàng Phê, Đức là “cái biểu hiện tốt đẹp của đạo lý trong tính nết, tư cách, hành động của con người”. Đức luôn đi đôi với tính nên xưa nay ta quen gọi đức tính là vì vậy.
Xét về cấu tạo chữ, phần phía bên trái của chữ là bộ xích 彳, ý nghĩa liên quan đến bước chân. Dân gian ta thường gọi vui rằng đây là bộ chim chích vì trông nó nhỏ nhắn và nghiêng sang một bên như hình chú chim chích đang đậu trên cành tre.
Phần bên phải của Đức 德 được tách ra từng phần như trong ca dao: Thập 十 trên là số mười, tượng trưng cho sự trọn vẹn. Tứ 四 dưới là số bốn, đại biểu cho bốn phương hướng rộng lớn. Nhất 一 đè chữ tâm 心 là nét gạch thẳng đặt lên trái tim, ý nói lòng người cần đĩnh đạc ngay thẳng. Cho nên có thể thấy, chữ Đức 德 dạy con người muốn có đức hạnh thì phải bắt đầu từ hành động đúng đắn (彳), giữ lòng ngay thẳng (一 đè 心) và mở rộng tấm lòng với thế giới (十四). Có tài liệu viết dưới thập là mục 目, cũng đại biểu cho sự quan sát bao quát, toàn diện. (Theo “Giải thích ý nghĩa của Đức và tầm quan trọng của nó trong văn hóa Trung Quốc”)
Đức là thứ được rèn mà nên chứ không phải tự sinh đã có, người phương Đông rất coi trọng chữ Đức. Giống như Khổng Tử luôn đề cao Đức là nền tảng đạo đức của con người và xã hội, tức gốc rễ của Ngũ thường bao gồm nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Hay Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh Đức là tiêu chuẩn hàng đầu của người cán bộ, phải tu dưỡng nhân cách bên cạnh tài năng: “Các cô các chú phải trau dồi cả đức cả tài, không có đức thì vô dụng, không có tài thì làm gì cũng khó.”
Vẫn là câu nói ấy, chúng ta học chữ vốn để soi xét mình. Viết tặng Quý độc giả chữ Đức, Tri Thư mong bạn luôn giữ được lòng ngay giữa những điều trái ngang, dù có đi từng bước nhỏ thì cũng thật vững vàng.
Bài viết: Khánh Ly
Hình ảnh: Chữ Đức theo lối lệ thư, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ