Nam nữ thụ thụ bất thân, thủ bút của Cảnh Lân
Nam nữ thụ thụ bất thân, thủ bút của Cảnh Lân

Nam nữ thụ thụ bất thân 男女授受不親

Nam nữ thụ thụ bất thân, chữ Hán viết là 男女授受不親.

Đây là một chuẩn mực lễ nghi cổ xưa trong văn hóa Trung Hoa, nhấn mạnh nguyên tắc nam nữ không được tiếp xúc thân mật khi trao nhận vật phẩm hay trong giao tiếp hàng ngày.

Thành ngữ này phản ánh một quy tắc ứng xử nhằm giữ gìn sự đoan trang, tránh những cử chỉ thân mật quá mức có thể gây ra những hiểu lầm hoặc vi phạm đạo đức xã hội thời phong kiến.

Nguồn gốc của nó được ghi lại trong sách “孟子 – 离娄上 Mạnh Tử – Ly Lâu thượng”: Biện sĩ lỗi lạc nhất nước Tề là Thuần Vu Khôn hỏi rằng: “Nam nữ trao và nhận không thân mật (nam nữ thụ thụ bất thân), có phải là lễ chăng?” Mạnh Tử đáp: “Đúng, là lễ.” Điều này chỉ rõ rằng hành động không chạm vào nhau trong lúc trao nhận vật phẩm là một phần của nghi thức lễ giáo được người xưa đặt lên hàng đầu.

Trước đó, nam nữ thụ thụ bất thân 男女授受不親 cũng thể hiện trong “Lễ Ký” qua những quy định nghiêm ngặt về việc nam nữ không được ngồi chung, ăn chung hoặc trò chuyện quá thân mật nhằm duy trì sự trong sáng và khuôn phép trong mối quan hệ hai giới. Quan điểm này dần thấm sâu vào xã hội, từ tầng lớp quý tộc cho đến các gia đình trung lưu, cuối cùng tạo thành khuôn khổ chuẩn mực trong sinh hoạt hàng ngày.

男 Nam là người đàn ông. Đây là kiểu chữ hội ý, được cấu tạo từ bộ 田 điền (ruộng vườn) và chữ 力 lực (sức mạnh). Sách Thuyết Văn Giải Tự viết: Nam là người đàn ông trưởng thành. Chữ này ghép từ ruộng và sức lực, ý nói đàn ông là người dùng sức lực làm việc trên ruộng đồng.

女 Nữ là người phụ nữ. Đây là chữ tượng hình, tượng trưng cho dáng đứng uốn éo, khoanh tay của người phụ nữ như đang giữ mình. Điều này tương ứng với bản chất và quan niệm xã hội về người nữ trong văn hóa cổ đại. Người xưa gọi người nữ chưa kết hôn là nữ 女, người nữ đã kết hôn là 婦 phụ. Hiện tại đều gọi chung là phụ nữ 婦女.

Thụ thụ 授受 nghĩa là cho và nhận. Chữ thụ 授 có bộ thủ 手 đầu tiên chỉ hành động cho đi, trao tặng, dạy dỗ. Còn chữ thụ 受 sau chỉ hành động tiếp nhận.

不 là phó từ phủ định, nghĩa là chẳng, không. Đây là chữ tượng hình. Sách Thuyết Văn Giải Tự giải thích nguyên nghĩa của nó là chim bay lên trên rồi không hạ xuống.

Thân 親, nghĩa gốc là sự gắn bó máu mủ, ruột thịt trong các cụm từ mang nghĩa người thân, họ hàng như song thân, thân mẫu, thân gia, thân thuộc,… Bên cạnh đó, chữ 親 thân còn mở rộng sang nghĩa hành động liên quan đến sự gần gũi, thân mật như hôn, gần gũi, chạm vào,… Cho nên từ thân 親 trong thành ngữ nam nữ thụ thụ bất thân 男女授受不親 có thể hiểu là sự đụng chạm thân mật hay tiếp xúc gần gũi với người khác giới, điều mà nghi thức lễ giáo cổ đại kiêng kỵ nhằm giữ phép tắc, tránh làm mất đi sự trang nghiêm.

Nam nữ thụ thụ bất thân hay nam nữ thọ thọ bất thân?

Theo nghiên cứu của Ngô Đức Thọ trong cuốn “Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại”, chúa Nguyễn Phúc Chú còn được gọi là Nguyễn Phúc Thụ, vì vậy dân gian phải kiêng không dùng chữ Thụ này. Có lẽ đó là lý do mà “thụ thụ” thường được thay bằng “thọ thọ” trong các văn bản để tránh phạm húy. Việc kiêng húy như thế rất phổ biến trong lịch sử Việt Nam, ví dụ như chữ “hoàng” được đổi thành “huỳnh” để tránh húy tên chúa Nguyễn, hay chữ “thì” thành “thời” nhằm kiêng húy vua Tự Đức.

男女授受不親 Nam nữ thụ thụ bất thân là nguyên tắc ứng xử cá nhân, đồng thời cũng là biểu hiện cụ thể của trật tự xã hội phong kiến, trong đó lễ nghĩa được xem như nền tảng duy trì sự ổn định và hài hòa. Nguyên tắc này được xây dựng để giữ lễ nhưng trong thực tế lại nghiêng về việc kiểm soát nữ giới và buộc họ phải giữ mình khắt khe hơn.

Ngày nay, giữa một xã hội đã cởi mở hơn trong việc hiểu và tôn trọng ranh giới cá nhân thì việc nhìn lại không phải để phê phán, đó là để hiểu hơn vì sao người xưa cần đến khuôn phép và đâu là ranh giới giữa đôi bên trong xã hội cũ.


Bài viết: Khánh Ly
Hình ảnh: Nam nữ thụ thụ bất thân, thủ bút của Cảnh Lân