Tang bồng 桑弧
Các bạn có nhớ bài hát Trống cơm không?
Bắt đầu bằng “Tình bằng có cái trống cơm” và kết thúc bằng “Duyên nợ khách tang bồng”.
Vậy tang bồng là gì? Khách tang bồng là cái chi chi?
“Tang bồng” là dạng rút gọn của thành ngữ gốc Hán “tang hồ bồng thỉ”. Chữ Hán viết như thế này 桑弧蓬矢.
Trong đó, “tang” là cây dâu; “bồng” là tên một loại cỏ thuộc chi ngải, cỏ bồng; “hồ” là cây cung và “thỉ” là mũi tên. “Tang hồ bồng thỉ” chính là cây cung làm bằng cành dâu, mũi tên làm bằng cỏ bồng.
Ý nghĩa của “tang bồng” bắt nguồn từ một truyền thống văn hóa lâu đời.
Xưa, người Mông Cổ có phong tục khi cúng thôi nôi (tròn 1 tuổi) cho con trai, người cha trịnh trọng đặt đứa trẻ lên lưng ngựa rồi giương cung bắn sáu phát ra các hướng đông tây nam bắc, lên trời và xuống đất, với ngụ ý khi trưởng thành, đứa trẻ sẽ tung hoành giữa thảo nguyên bát ngát.
Phong tục này theo nhà Nguyên vào đất Trung Hoa, đi vào trong văn hoá và chữ nghĩa. Từ đó ta có những cụm từ mới.
Chí tang bồng: Chí làm trai, xông pha ra ngoài xã hội tung hoành.
Nợ tang bồng: Người đàn ông (theo quan niệm xã hội cũ) từ khi mới sinh ra đã mang cái nợ phải xông pha bốn phương rồi. Còn chưa đi ra ngoài, là còn mang nợ.
Khách tang bồng: Khách thập phương, khách vãng lai, có ý chỉ những người đi xa, phiêu dạt cho thoả chí tang bồng.
Ca dao có câu:
Làm trai quyết chí tang bồng
Làm sao tỏ mặt anh hùng mới cam
Nguyễn Công Trứ có bài thơ tên là Nợ tang bồng, ông cũng có một bài ca trù hát như thế này:
Tang bồng là nợ
Chí làm trai chi sợ áng công danh.
Đó là thời trước. Còn bây giờ, chẳng kể trai hay gái, hễ có chí thì cứ vẫy vùng cho thoả chí, mà an phận thì cứ nhàn nhã sống qua ngày. Yên ổn sống hết đời mình, cũng được xem là thành công rồi.
—
Ảnh: Chữ viết tay của Nguyễn M. Như
Bài viết được Tri thư đạt lễ 知書達禮 biên soạn, vui lòng không sao chép và đăng lại.