Tao khang lối lệ thư, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ
Tao khang lối lệ thư, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

Tao khang 糟糠 (tào khang)

"Đường dù xa ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang…"
(Dạ cổ hoài lang)

Hai chữ “tào khang” thường xuất hiện trong lời ăn tiếng nói, ca từ và cả trong văn chương dân tộc để chỉ tình nghĩa vợ chồng. Ở một số nơi, đặc biệt là miền Nam, có khi người ta đọc thành “tào khương” do ảnh hưởng cách phát âm địa phương. Tuy nhiên “tào khang” hay “tào khương” đều là âm bị đọc chệch mà thành, từ đúng của nó là tao khang 糟糠 mới phải.

Tao khang 糟糠 là những thứ phụ phẩm thô như bã rượu, cám gạo, thường dùng để nuôi trâu lợn gà vịt hoặc cứu đói lúc kham khổ. Nó là từ viết tắt của thành ngữ Tao khang chi thê 糟糠之妻 mà ta quen gọi là “người vợ tào khang”. Tao khang chi chê 糟糠之妻 ẩn dụ cho hình ảnh người vợ giàu đức hy sinh, từ đó tôn vinh những người phụ nữ từng nếm mật nằm gai, gắn bó với chồng từ thuở cơ hàn.

Thuật ngữ này xuất phát từ một tích xưa, được Phạm Diệp nhà Tống thời Nam Triều chép trong “Hậu Hán thư – Tống Hoằng truyện”. Chuyện kể về Tống Hoằng, một vị hiền thần đức hạnh dưới triều Hán Quang Vũ Đế. Trong lúc bôn ba với Lưu Tú (sau là Hán Quang Vũ Đế), ông nên duyên với một người con gái tuy không xinh đẹp nhưng hết lòng chăm sóc ông trong cảnh khốn khó. Về sau khi đã hiển đạt, Tống Hoằng vẫn một lòng một dạ chung thủy với vợ. Hán Quang Vũ Đế lên ngôi, chị gái ông là công chúa Hồ Dương đem lòng mến mộ Tống Hoằng nên nhờ em trai mai mối. Trong một buổi yến tiệc, Hán Quang Vũ Đế thăm dò ý tứ Tống Hoằng rằng: “Người đời có câu: Giàu đổi bạn, sang đổi vợ. Khanh có nghĩ là chuyện thường tình chăng?” Tống Hoằng nghe vậy liền đáp “臣闻貧賤之知不可忘,糟糠之妻不下堂 Thần văn, bần tiện chi giao bất khả vong, tào khang chi thê bất hạ đường”. Tạm dịch là: Thần nghe nói, bạn bè lúc gian khó chớ quên, vợ lúc hàn vi chớ hắt hủi. Lời ấy khiến Hán Quang Vũ Đế và công chúa Hồ Dương vô cùng kính phục Tống Hoằng. Từ đó tao khang trở thành cách gọi tắt cho thành ngữ tao khang chi thê 糟糠之妻, cũng là cách gọi trân trọng dành cho người vợ đã cùng chồng trải qua những tháng ngày khốn khó, ca ngợi tình cảm và lòng thủy chung của hai vợ chồng.

Tao 糟 có nghĩa là bã, hèm, phần cặn còn sót lại sau khi làm rượu. Đây là một chữ hình thanh, có bộ mễ 米 (lúa gạo) cho nghĩa và mượn âm đọc chữ tào 曹. Nghĩa gốc của chữ là một loại rượu đặc chưa lọc, còn cả phần trong lẫn phần cặn. Về sau, nó mới dần được dùng để chỉ riêng phần bã rượu sau khi đã lọc. Phàm những thứ cặn bã, vô dụng và không có giá trị cũng gọi là tao 糟, trái nghĩa với tinh hoa 精華. Trong “Sử ký – Khuất Nguyên Giả Sinh liệt truyện” của Tư Mã Thiên có viết: “眾人皆醉,何不餔其糟而啜其醨?Chúng nhân giai túy, hà bất bô kỳ tao nhi xuyết kỳ li?”, tạm dịch là: Mọi người đều say, sao không ăn bã hèm và uống rượu nhạt?

Khang 糠 có nghĩa là vỏ thóc, trấu, phần nhẹ và thô bị loại bỏ sau khi xay giã. Đây cũng là một chữ hình thanh, gồm bộ mễ 米 biểu ý và chữ khang 康 biểu âm. Vì có bộ mễ 米 biểu ý nên khang 糠 cũng cho thấy nghĩa chữ liên quan đến ngũ cốc, lúa gạo. Những thứ bột cám ít giá trị nằm bên ngoài hạt cũng được gọi là khang 糠.

Trong kho tàng ca dao dân tộc, “tao khang” không ít lần được nhắc tới:

"Đôi ta là nghĩa tao khang,
Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau."

Hay

“Nghĩa tao khang ai đà vội dứt,
Đêm nằm tấm tức, luỵ nhỏ tuôn rơi.”

Trong Truyện Kiều, khi Thúy Kiều khuyên Thúc Sinh về với Hoạn Thư, Nguyễn Du cũng viết rằng:

"Tin nhà ngày một vắng tin
Mặn tình cát luỹ, lạt tình tao khang."

Chữ Hán của cát lũy là 葛藟, nghĩa là dây sắn và dây bìm, những loại cây phải nhờ vào cây lớn mà bò lên, (theo “Hán Việt Từ điển” của Đào Duy Anh) ở đây tượng trưng cho người vợ lẽ (Kiều ví mình). Cho nên tao khang 糟糠 ở đây vừa ẩn dụ nghĩa vợ chồng vừa khéo léo ám chỉ hình ảnh người vợ cả (Hoạn Thư).

Theo chế độ lễ nghi truyền thống trích từ sách “Chu Lễ – Hôn Nghĩa”, người Hán có quy định “七出三不去 thất xuất tam bất khứ”, nghĩa là người chồng có quyền bỏ vợ nếu vợ phạm vào 7 điều cấm kỵ: Không thuận cha mẹ chồng, không sinh con, dâm loạn, ghen tuông, bệnh nan y, thị phi, trộm cắp. Tuy nhiên có 3 điều mà người đàn ông không thể bỏ vợ, trong đó có 糟糠之妻 tao khang chi thê mà ta đang bàn đến.

Có ai từng nghe Dạ cổ hoài lang mà không thuộc “Đường dù xa ong bướm, xin đó đừng phụ nghĩa tào khang…”? Nó hằn sâu vào đạo lý hôn nhân Á Đông một lẽ thủy chung, son sắt, trước sau như một. Trong một xã hội từng xem “giàu đổi bạn, sang đổi vợ” là lẽ thường thì nghĩa tao khang đã vượt lên thành biểu tượng văn hoá và thước đo đức hạnh trong hôn nhân truyền thống. “Tao khang” vẫn còn đó, còn trong dân ca, trong văn chương cổ điển, trong ký ức tập thể về những người đã cùng nhau đi qua gian khó, không phụ nhau lúc cơ hàn và giữ trọn một lời thề sắt son.


Bài viết: Khánh Ly
Hình ảnh: Tao khang lối lệ thư, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ