“Tảo tần” có phải là một lời khen dành cho phụ nữ không?
“Tảo tần” (cũng nói tần tảo), hán tự là 藻蘋, là một từ riêng dùng để chỉ người phụ nữ.
Về mặt ngữ nghĩa, “tảo tần” là tính từ chỉ những người phụ nữ chịu thương chịu khó, làm lụng vất vả, đảm đang gánh vác gia đình trong cảnh sống khó khăn. Người “tảo tần” không những làm việc chăm chỉ mà còn làm trong âm thầm, không đòi hỏi, không phô trương.
Về mặt nguồn gốc, “tảo tần” là một từ ghép đẳng lập gồm hai yếu tố “tảo” 藻 và “tần” 蘋 đều là hai danh từ gốc Hán thuộc bộ thảo (liên quan đến cây cỏ). Đây là tên của hai loài rau sống dưới nước, người đàn bà thời cổ phải hái rau tảo rau tần làm đồ cúng dâng lên tổ tiên.
Trong Kinh Thi cũng có ba bài “Thái tần” (Hái rau tần) viết về phong tục thờ cúng cổ xưa này. Theo chú thích của Chu Hy thì “tần” là rau lục bình nổi trên mặt nước, người Giang Đông gọi là bèo, “tảo” là rong tụ, tảo ở đáy nước, cọng như ngọn cây thoa, lá như cỏ bồng. Đây đều là hai loài cây không dễ hái, phải xuống sông lặn lội đi tìm, từ đó phái sinh thêm nét nghĩa chỉ người con gái chăm chỉ, đảm đang lo việc gia đình.
Hàn Dũ đời Đường trong “Tương trung” (Trong vùng sông Tương) có nhắc đến hai loại rau này như một lễ vật thường dùng để thờ cúng:
蘋藻滿盤無處奠,
空聞漁父扣舷歌。
Phiên âm:
Tần tảo mãn bàn vô xứ điện,
Không văn ngư phủ khấu huyền ca.
Tạm dịch:
Rau tần rau tảo đầy mâm mà không có chỗ để cúng tế,
Chỉ nghe tiếng ông chài gõ vào mạn thuyền mà hát.
Trong văn học cổ điển Việt Nam cũng đã ghi nhận trường hợp “tảo tần” xuất hiện theo cả hai nét nghĩa, vừa là lễ vật trong nghi thức thờ cúng, vừa là một từ thể hiện đức tính đảm đang của người phụ nữ, chẳng hạn như trong “Tổ tiên kỵ nhật hữu cảm” (Cảm xúc nhân ngày giỗ tổ tiên), Lê Cảnh Tuân đời Hồ có viết:
蘋藻若為供菲奠,
松楸回首暮雲沉。
Phiên âm:
Tần tảo nhược vi cung phi điện,
Tùng thu hồi thủ mộ vân trầm.
Tạm dịch:
Tần tảo rau nghèo dâng lễ mọn
Tùng thu ngoảnh mặt khuất mây chiều
Hay trong tập “Gia huấn ca” (Bài hát dạy người nhà) tương truyền là của Nguyễn Trãi soạn cũng có đoạn:
“Kính người vợ phép ở Lễ Kinh
Chức phận phải chăm bề tần tảo.”
Như vậy, “tảo tần” vốn xuất phát từ một phong tục thờ cúng cổ xưa, dần được chuyển loại và phái sinh thêm nét nghĩa chỉ sự đảm đang, tháo vát của người phụ nữ trong gia đình. Trong bối cảnh hiện nay, “tảo tần” có xu hướng vượt ra khỏi nét nghĩa “phụ nữ lam lũ” như trước nay vẫn dùng, một số trường hợp “tảo tần” còn được dùng để biểu đạt sự bền bỉ, nỗ lực trong công việc và cuộc sống, bất kể giới tính.
Dẫu vậy, trong văn hóa Việt Nam, “tảo tần” vẫn luôn gợi nhắc đến hình ảnh người phụ nữ cao đẹp, là lời ngợi ca âm thầm dành cho những người góp phần giữ gìn và nuôi dưỡng mái ấm gia đình, cội nguồn văn hóa Việt.
Tuy nhiên, “tảo tần” không nên trở thành gánh nặng áp lên vai người phụ nữ. Tảo tần là phẩm chất đáng trân trọng nhưng không nên là số phận mặc định phụ nữ phải noi theo.
__
Bài viết: Mỹ Trinh
Hình ảnh: Tảo tần, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ