Bốn câu đầu trong bài thơ Trường Can hành của Lý Bạch, chữ viết tay của Thanh Đài nữ sĩ
Bốn câu đầu trong bài thơ Trường Can hành của Lý Bạch, chữ viết tay của Thanh Đài nữ sĩ

Thanh mai trúc mã

Thanh mai trúc mã” là một thành ngữ gốc Hán, chỉ cho đôi trai gái vốn là bạn thời tấm bé, lớn lên cùng nhau và sau này nên duyên thành vợ chồng. Vậy nó có gì giống với “trúc – mai” trong văn hóa Việt Nam không?

“Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những giang cùng nứa biết ai bạn cùng?”
(Trấn thủ Lưu Đồn)

Trong văn hóa Việt Nam, trúc và mai là hai cây cùng loại tre. Loài mai này không phải là mai nở hoa vàng (hoàng mai) mà người Việt trồng chơi Tết phổ biến ở miền Nam. Nó là một loại tre ống thẳng, thân cao lớn hơn trúc, màu xanh xám, có măng màu tím than giống măng tre.

Vì lẽ ấy, người Việt ta thường ví trúc cho người phụ nữ và mai cho người đàn ông vì hình dáng trúc mảnh mai hơn tre. Chúng cũng có thể cùng nhau sinh trưởng trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Từ đó, ca dao và văn học cổ điển Việt Nam thường nhắc đến “trúc – mai” với ý nghĩa tượng trưng cho tình duyên đôi lứa và tình cảm vợ chồng. Ví như khi Thúy Kiều thề giữ trọn hẹn ước với Kim Trọng, Nguyễn Du đã viết rằng:

“Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.”
(Truyện Kiều)

Tuy nhiên, chúng có phần khác biệt so với thành ngữ “thanh mai trúc mã” gốc Hán. Nguồn gốc thành ngữ này được trích từ bài thơ “Trường Can hành” của Thi tiên Lý Bạch thời Thịnh Đường. Bài thơ kể về đôi trai gái từ nhỏ đã sống tại Trường Can lý. Thuở thiếu thời, hai đứa bé ngây ngô nô đùa, cậu bé cưỡi ngựa trúc, cô bé ném mơ xanh, tâm tư hòa hợp không hề nghi kỵ. Họ lấy nhau năm 14 tuổi, cùng thề nguyền thuỷ chung. Năm 16 tuổi, chồng đi đến nơi xa buôn bán, thiếu phụ đứng ở cửa ngóng trông, mong rằng khi chồng xuôi dòng Trường Giang trở về thì hãy viết thư thật sớm. Cô không quản bảy trăm dặm xa, sẽ chạy tới Trường Phong Sa đón chồng.

“Thanh mai trúc mã” xuất phát từ câu thơ “Lang kỵ trúc mã lai, nhiễu sàng lộng thanh mai” trong bài, tạm dịch là: Chàng cưỡi ngựa tre lại, (thiếp) chạy quanh giàn giếng, nghịch ném quả mơ xanh.

Xét về ngữ nghĩa, “trúc mã” là trò chơi dùng gậy trúc làm ngựa của trẻ con. “Hậu Hán Thư – Quách Cấp Truyện” có viết: “Có mấy trăm đứa trẻ, mỗi đứa cưỡi ngựa trúc, lần lượt nghênh đón như tướng quân trở về.” Còn “thanh mai” chính là quả mơ hay ô mai mà ta hay gọi. Chúng có màu xanh lục khi chưa chín và màu vàng khi chín, sống được ở vùng cao và chịu được khí hậu lạnh giá.

Như vậy, nghĩa từ vựng của “trúc mai” trong thành ngữ gốc Hán trên so với văn hóa Việt Nam ta là hoàn toàn khác biệt. Ngay cả khi xét về ý nghĩa biểu tượng, chúng cũng có vài nét không tương đồng. Đây cũng là điểm cần lưu ý trong quá trình nghiên cứu văn chương cổ điển Việt Nam.

Bài viết: Khánh Ly
Ảnh: Bốn câu đầu trong bài thơ Trường Can hành của Lý Bạch, chữ viết tay của Thanh Đài nữ sĩ.