Thuật ngữ Đông y: Hàn 寒
Hàn 寒 là một chữ thuộc nhóm chữ hội ý. Sách “Thuyết văn giải tự” do Hứa Thận biên soạn có chú giải chữ hàn 寒 như sau: “凍也。从人在宀下,以茻薦覆之,下有仌。”, nghĩa là chữ hàn 寒 là lạnh cóng. Cấu tạo chữ gồm một người (nhân 人) ở dưới mái nhà (miên 宀), được đám cỏ (mãng 茻) phủ lên, bên dưới có bộ 仌 băng lạnh lẽo. Sách “Tìm về cội nguồn chữ Hán” thì giải thích chữ hàn 寒 rằng: Trong nhà có người chân trần đứng trên hai miếng băng chứng tỏ thời tiết rất lạnh.
Hàn là lạnh, chủ khí về mùa đông. Trong y học cổ truyền, hàn 寒 là một trong sáu “lục tà” – sáu thứ khí gây bệnh ngoại cảm (bệnh do bên ngoài đưa tới): phong (gió), hàn (lạnh), thử (nắng), thấp (độ ẩm), táo (độ khô), hoả (nhiệt).
Hàn được phân làm hai loại: Ngoại hàn là tà khí lạnh từ môi trường bên ngoài, thường phát tác vào mùa đông. Ngoại hàn có thể xâm nhập cơ thể theo hai con đường: Thương hàn (傷寒) là khi hàn tà xâm phạm phần biểu – tức lớp ngoài của cơ thể, gây các triệu chứng như ớn lạnh, sốt, đau nhức; trúng hàn (中寒) là khi hàn tà trực tiếp nhập vào tạng phủ bên trong, gây hại sâu sắc hơn. Người trúng hàn thường biểu hiện sốt cao, đau đầu, buồn nôn, rét run, thậm chí co giật hay bất tỉnh nếu không được điều trị kịp thời. Nội hàn là tình trạng do dương khí trong cơ thể suy yếu, làm giảm chức năng sinh lý và gây ra các biểu hiện bệnh lý như lạnh tay chân, tiêu hóa kém, mạch trầm trì. Người ta hay nói “người thể hàn” là để chỉ những người thường có vẻ ngoài gầy, sợ lạnh, ít ra mồ hôi, lưỡi có rêu trắng, sắc mặt nhợt nhạt.
Hiểu về hàn 寒 không chỉ để hiểu được một yếu tố gây bệnh trong y học cổ truyền mà còn là bước tiếp cận vào thế giới quan y học phương Đông, nơi con người và vũ trụ không tách rời, sức khỏe là sự hài hòa giữa nội tại và hoàn cảnh. Trong cái lạnh của hàn 寒 không chỉ có nguy cơ bệnh tật mà còn hàm chứa lời nhắc nhở về sự thận trọng, điều tiết, sống thuận theo đạo Trời – Đất. Chính trong sự thấu hiểu ấy, y học Đông phương hướng con người đến một lối sống quân bình, thuận tự nhiên và dưỡng sinh bền vững.
Bài viết: Mỹ Trinh
Hình ảnh: Hàn, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ