Thủy chung, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ
Thủy chung, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ

Thủy chung 始終

Thủy chung, chữ Hán viết là 始終, có nghĩa là quá trình trọn vẹn từ đầu đến cuối.

Từ này xuất phát từ “Tuân Tử – Lễ luận”: “Cố quân tử kính thủy nhi cẩn chung, chung thủy nhược nhất, thị quân tử chi đạo 故君子敬始慎終,終始若一,是君子之道”, tạm dịch là: Cho nên người quân tử trước kính cẩn sau thận trọng, trước sau như một, mới là đạo của người quân tử.

Trong “Lễ ký – Đại học” cũng có viết: Vật hữu bổn mạt, sự hữu chung thủy 物有本末, 事有終始, tức là mọi vật đều có gốc có ngọn, mọi chuyện đều có đầu có đuôi.

Thủy 始 có nghĩa là điểm đầu, bắt đầu. Đây là kiểu chữ hình thanh, do bộ nữ biểu ý và chữ đài biểu âm tạo thành. Chữ thủy 始 trong cổ văn thường được dùng thông nghĩa với chữ sơ 初, đều mang nghĩa khởi nguyên, sơ phát, bởi vì thời xưa quan niệm người nữ là khởi đầu của sự sống. Những từ như bản thủy, nguyên thủy, thủy tổ, khởi thủy… đều là chữ thủy này.

Chung 終 có nghĩa là điểm cuối, kết thúc. Đây là kiểu chữ hình thanh, do bộ mịch biểu ý và chữ đông biểu âm tạo thành. Chữ chung 終 ngày xưa trên giáp cốt tượng hình một nắm tơ được buộc chặt hai đầu, thể hiện ý kết thúc. Những từ như chung điểm, chung quy, chung thân, chung kết… đều là chữ chung này.

Trong văn chương cổ điển Trung Hoa, vì thủy chung 始終 xuất hiện sớm và phù hợp với tư duy Nho học về logic tự nhiên “hữu thủy tất hữu chung” (có đầu ắt có cuối) nên nó trở thành tiêu chuẩn đạo đức con người. Tuy nhiên trong tiếng Việt, thủy chung và chung thủy không có quá nhiều sự khác biệt, hai từ này hầu như được dùng như nhau, vì người Việt lý giải thủy chung là đi từ đầu đến cuối, còn chung thủy là đi đủ một vòng rồi quay về điểm khởi đầu. Đây là cách dân gian đảo vị từ tự nhiên theo tiến trình Việt hóa Hán ngữ của người Việt ta.

Về thủy chung, giống như Nguyễn Du đã viết rằng:

㐌君子多忙
鑿跢鐄始終。
Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc đá vàng thuỷ chung.
(Truyện Kiều, 351 – 352)

Hay về chung thủy, Trương Cửu Linh cũng đã viết:

滔滔大江水,
天地相終始。

Phiên âm:
Thao thao đại giang thủy,
thiên địa tương chung thủy.
Tạm dịch là:
Nước sông lớn cuồn cuộn không ngừng,
như trời đất vĩnh cữu trước sau như một.
(Đăng Kinh Châu thành vọng giang kỳ 1)

Đi được từ đầu đến cuối không phải là thủy chung. Thủy chung là đi hết một quãng đường dài mà lòng vẫn vẹn nguyên. Vậy nên Người xưa nói chung thủy nhược nhất 终始若一 nhất chính là lẽ như vậy.


Bài viết: Khánh Ly
Hình ảnh: Thủy chung, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ