Tương kính như tân 相敬如賓
Tương kính như tân 相敬如賓 là một thành ngữ gốc Hán, nguyên chỉ vợ chồng tuy đã gắn bó lâu dài nhưng vẫn giữ được sự tôn trọng và yêu thương nhau như hai vị khách quý, không vì thân thiết mà thất lễ hay xem thường. Thành ngữ này nhấn mạnh chữ “kính” không chỉ trong mối quan hệ vợ chồng mà còn trong tất cả các mối quan hệ khác, vì ngoài yêu thương thì còn có khoảng cách vừa đủ để tôn trọng, nhường nhịn và không vượt lằn ranh lễ nghĩa.
Thành ngữ xuất phát từ thiên “Hy Công Tam Thập Tam Niên” của Xuân Thu Tả Truyện. Trong đó có ghi “臼季使,过冀,见冀缺耨,其妻馌之,敬,相待如賓 Cữu Quý sứ, quá Ký, kiến Ký Khuyết nậu, kì thê diệp chi, kính, tương đãi như tân”. Tạm dịch là: Cữu Kế đi sứ, qua nước Ký, nhìn thấy Ký Khuyết làm cỏ ngoài đồng, vợ của anh ta mang cơm cho chồng, họ cư xử cung kính, đối đãi với nhau như khách quý. Cổ văn thường dùng “tương đãi như tân” 相待如賓 để mô tả cách đối đãi ấy, về sau được cô đọng thành thành ngữ “tương kính như tân” 相敬如賓 như bây giờ.
Tương 相 có nghĩa là lẫn nhau, với nhau, cùng nhau. Đây là kiểu chữ hội ý, được cấu tạo bởi bộ mục 目 (con mắt) và chữ mộc 木 (cái cây). Sách Thuyết Văn Giải Tự viết rằng: Tương là nhìn ngắm, xem xét một cách kỹ lưỡng. Cây là vật dễ thấy nhất trên đất nên việc nhìn cây cũng ngầm ám chỉ sự quan sát, đánh giá những gì hiện hữu rõ ràng. Vì là một phó từ nên Tương 相 thường đứng trước động từ trong tổ hợp từ lớn hơn. Những từ thường gặp như tương tư, tương phùng, tương hợp, tương đồng, tương ngộ, tương tác… đều là chữ Tương 相 này.
Kính 敬 có nghĩa là nghiêm trang, tôn trọng. Nó được cấu tạo từ bộ phộc 攴 với nghĩa đánh khẽ để điều chỉnh, thúc ép giữ quy củ. Chữ cẩu 苟 còn lại vốn nghĩa là tạm bợ nhưng trong cấu tạo chữ với phộc, cẩu lại gợi lên nét nghĩa không qua loa. Cho nên Kính 敬 chỉ việc giữ lòng thành, hành động cẩn trọng và không tùy tiện. Những từ thường gặp như tôn kính, kính cẩn, kính trọng, cung kính, kính phục… đều dùng chữ Kính 敬 này.
Như 如 có nghĩa là giống như, như, tương tự. Đây là kiểu chữ hội ý, được cấu tạo từ bộ nữ 女 với nghĩa người nữ, con gái. Chữ khẩu 口 với nghĩa cái miệng đại biểu cho lời nói, mệnh lệnh. Như 如 hình dung hình ảnh người con gái vâng theo lời chỉ dạy của cha mẹ và mệnh lệnh của chồng. Cho nên nghĩa gốc của nó là theo sau, tuân theo, phục tùng.
Tân 賓 có nghĩa là khách quý, người được tiếp đãi. Người ở ngoài đến gọi là Khách 客, kính mời ngồi trên gọi là Tân 賓. So với khách thì tân mang sắc thái tôn trọng và trang nghiêm hơn. Trong cổ văn, Tân 賓 thường được dùng để gọi sứ giả, quan lại hoặc tân khách trong hôn lễ.
Vợ chồng giữ kẽ như tân khách có phải thái quá chăng? Ngẫm kỹ thì chẳng phải vậy. Tương kính như tân 相敬如賓 không dạy ta giữ khoảng cách mà là giữ sự tôn trọng, để biết rằng dù trong bất kỳ mối quan hệ nào, con người cũng không nên vì thân quen mà hành xử vô ý, cũng không vì gần gũi mà xem nhẹ nhau. Tôn trọng là nền tảng để xây dựng tình cảm bền chặt. Vợ chồng biết nhường nhịn, bè bạn biết chừng mực, cha mẹ con cái biết lắng nghe, tất cả đều chính là “tương kính như tân” đó thôi.
__
Bài viết: Khánh Ly
Hình ảnh: Tương kính như tân, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ