Vọng 望
Người xưa nói ngước mắt nhìn lên gọi là vọng, đưa mắt nhìn ngang gọi là kiến. Tại sao đưa mắt nhìn lên mới gọi là vọng?
Vọng, chữ Hán viết là 望, nghĩa gốc là nhìn về phía xa hoặc nhìn từ nơi cao, dẫn sinh các nghĩa như chờ đợi, trông mong; mở rộng nghĩa thành người được ngưỡng mộ, từ đó mới có nghĩa thanh danh. Ngoài ra, vọng 望 còn dùng để chỉ ngày rằm âm lịch, tức ngày mười lăm hàng tháng. Những từ như cuồng vọng, danh vọng, hy vọng, kỳ vọng, thất vọng, vọng phu… đều là chữ vọng này.
Trong thư tịch cổ, tự hình Lệ thư của nó là chữ vọng 朢 này, thuộc kiểu chữ hội ý. Văn tự thời giáp cốt cho thấy phía trên là chữ thần 臣 tượng hình con mắt, phía dưới là chữ nhâm 壬 tượng hình người. Sau này bộ nguyệt 月 được thêm vào, toàn thể biểu ý người đứng trên mặt đất, ngẩng đầu nhìn trăng, sau suy rộng ra là bất kỳ thứ gì ở xa, thể hiện rất rõ nét nghĩa “cử đầu vọng minh nguyệt” (ngẩng đầu nhìn trăng sáng).
Sau này, phần mắt (臣) của chữ bị biến đổi, khi thì giống nhĩ 耳, khi thì sai thành vong 亡 (vốn là hình mắt bị đ.â.m hỏng). Dần dần chữ vọng 朢 chuyển từ hội ý thành hình thanh, chữ vong 亡 trở thành phần cho âm, cuối cùng tạo chữ vọng 望 như hiện tại.
Ví như Nguyễn Du viết:
“Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi!
Song thu đã khép cánh ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.”
(Truyện Kiều)
Từ hành động ngước nhìn trăng, chữ vọng 望 được mở rộng nghĩa để chỉ một giai đoạn cụ thể trong chu kỳ trăng, là danh từ chuyên biệt chỉ lúc trăng tròn, tức nguyệt mãn 月滿. Trong “Thuyết danh – Thích thiên” có giải thích rằng: “Vọng là tên gọi khi trăng tròn.” Vì vậy, cách nói như bát nguyệt chi vọng 八月之望 nghĩa là ngày mười lăm tháng tám âm lịch (Tết Trung thu).
Theo âm lịch cổ, một số ngày trong tháng đều có tên riêng. Người xưa gọi mùng một là sóc 朔, rằm là vọng 望, ngày cuối tháng là hối 晦.
Nhân ngày rằm tháng Sáu, Tri Thư xin viết tặng quý bạn đọc một chữ vọng 望, chúc bạn một đêm thưởng trăng an nhiên.
Bài viết: Khánh Ly
Hình ảnh: Vọng, thủ bút của Thanh Đài nữ sĩ